Trong hóa học, thuyết Brønsted-Lowry là một trong các thuyết axit-bazơ, được đề xuất bởi Johannes Nicolaus Brønsted 1923. Trong hệ thống này, một axít được định nghĩa là bất kỳ chất nào (phân tử hoặc ion) có khả năng nhường proton H+ , và một bazơ là chất có khả năng nhận proton. Bởi vậy nếu có một hợp chất là axit, nhường đi một proton, sẽ phải có một bazơ nhận proton này. Vì thế nên thuyết Brønsted có thể định nghĩa bằng phản ứng
axít + bazơ
bazơ liên hợp + axít liên hợp.
Bazơ liên hợp là phân tử hoặc ion còn lại sau khi axit đã nhường đi một proton, và axit liên hợp là chất được tạo khi bazơ đã nhận proton. Phản ứng có thể xảy ra theo chiều thuận hoặc nghịch; trong từng trường hợp axit nhường một proton cho bazơ.
Nước là một chất lưỡng tính có thể phản ứng như một axit hoặc bazơ. Trong phản ứng giữa axit axetic, CH3COOH, và nước, H2O, nước phản ứng như là một bazơ.
CH3COOH + H2O
CH3COO- + H3O+
Ion axetat , CH3COO-, là bazơ liên hợp của axit axetic và ion H3O+ là axit liên hợp của bazơ và nước.
Nước cũng có thể phản ứng như một axít, ví dụ như khi phản ứng với amoniac. Phương trình cho phản ứng này là:
H2O + NH3
OH- + NH4+
Trong đó H2O nhường một proton cho NH3. Ion hiđrôxit là bazơ liên hợp của nước có tính chất như một axít
Một axit mạnh, như axit clohiđric, phân ly hoàn toàn. Một axit, như axit axetic, có thể chỉ phân ly một phần; hằng số phân ly axit, pKa, là giá trị để đo độ mạnh của axit.
Một số lượng lớn các hợp chất có thể phân loại theo thuyết Brønsted : các axit vô cơ và các dẫn xuất như các sulfonat, phosphonat, v.v., các axit cacboxylic, amin, axit carbon, 1,3-diketone như acetylacetone, ethyl acetoacetate hoặc axit Meldrum và rất nhiều các chất khác nữa.